Monday 8 August 2016

Ký Ức Về Những Bài Học Thuộc Lòng Thời Tiểu Học

Lê Tuấn Đạt

he1bb8dc-le1bb9bp-nhe1baa5t-le1bb9bp-nhc3ac-he1bb93i-xc6b0a-h2

Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách.

Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.


Cô giáo dạy tiếng Việt

Học trò, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ được dùng một thứ bút duy nhất, là bút ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực, thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phểu dưới nhỏ trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lổ tròn vừa vặn khoét sãn trên bàn học cho khỏi ngã đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy ma lực hấp dẩn đối với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.

Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm, thì sợ khi lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất phụ trách tất cả các môn.

Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ, lớp Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng

blank

Cứ mỗi năm lại có các ban tu thư, có thể là do tư nhân tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh, rồi đem phân phối khắp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của Bộ Giáo dục là được.
Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là ấn tượng hơn nhiều.

Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt.

Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ, là túc cầu:

TRẬN CẦU QUỐC TẾ

Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm
Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân
Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần
Để cổ võ cho trận cầu quốc tế.
Đoàn tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé
Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa
Còi xuất quân vừa lanh lảnh ban ra
Thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi.
Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới
Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn
Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang
Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ
Thiếu bình tỉnh, một vài người chơi dữ
Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân
Quả bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết hai hiệp và…đội nhà đã thắng
Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng
Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh
Khi giao banh, khi phá lưới, hãm thành
Nên đoạt giải dù địch to gấp bội…

Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết, lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”… Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên…thuộc lòng luôn.

Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đao to búa lớn ồn ào chắc chi đã làm được.

Nói về môn Lịch sử, hồi đó gọi là Quốc sử, đã có sẵn một bài học thuộc lòng khác:

GIỜ QUỐC SỬ

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử.
Thầy tôi bảo:
“Các con nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thưở trước của giang san,
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các con nên đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này mong nối chí tiền nhân.
Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam.
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc”

Hình ảnh ông thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in.

Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng sa:

Hôm qua tập vẽ bản đồ,
Thầy em lên bảng kẻ ô rõ ràng.
Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm,
Từ Nam Quan cho đến Cà Mau.
Từng nơi, thầy thuộc làu làu,
Đây sen Đồng Tháp,
đây cầu Hiền Lương. Biển Đông Hải,
trùng dương xanh thẳm,
Núi cheo leo thầy chấm màu nâu.
Tay đưa mềm mại đến đâu,
Sông xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng…
Rồi với giọng trầm hùng, thầy giảng:
“Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng,
Trải bao thăng giáng, phế hưng,
Đem giòng máu thắm, bón từng gốc cây.
Làn không khí giờ đây ta thở,
Đường ta đi, nhà ở nơi này,
Tổ tiên từng chịu đắng cay,
Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta.
Là con cháu muôn nhà gìn giữ,
Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau.
Tóc thầy hai thứ từ lâu,
Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông !
Nay chỉ biết ra công dạy dỗ,
Đàn trẻ thơ mong ở ngày mai.
Bao nhiêu hy vọng lâu dài,
Dồn vào tất cả trí tài các con …”

Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ?

Lời của thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp: Tổ quốc Việt Nam.
(st bởi sggdpost)

Kỷ Niệm Thời Đi Học

1b

“Xin kính mời ông Hiệu trưởng và toàn thể quý Thầy – Cô dự lễ chào quốc kỳ …”

Tôi rán giữ hết sức bình tĩnh để nói vào cái micro dựng trước mặt …. Sáng thứ Hai nào cũng vậy … các trường ở Saigon đều tổ chức lễ chào cờ đầu tuần … Trường của tôi có lệ là giao cho lớp Nhứt nào đảm trách trực kỷ luật tuần đó chuẩn bị và điều khiển buổi lễ quan trọng này …

Lễ chào quốc kỳ là một yếu tố quan trọng trong chương trình học … thuộc các môn “Công dân Giáo dục” và “Đức Dục” ở bậc tiểu học ngày xưa …. Dù trước đó … hồi còn ở các lớp dưới … tôi đã được chứng kiến những buổi lễ như vậy …. nên cũng không thấy bỡ ngỡ lắm … Nhưng khi đến lượt mình đứng ra chịu trách nhiệm thì mới thấy … khớp …

Ông hiệu trưởng và các nam nữ giáo viên trong trường lần lượt bước ra khỏi văn phòng … tiến ra vị trí đối diện với lớp tôi …. phía bên kia kỳ đài …. Ngay trước vị trí của ông hiệu trưởng đứng … cũng có một micro tương tự như cái dựng trước mặt tôi …. Các thầy thì đều áo sơ-mi bỏ trong quần … các cô thì áo dài …. họ tề chỉnh xếp thành một hàng sau lưng ông hiệu trưởng …. Tôi nhìn sang tay mặt … phía hành lang trước văn phòng … Bác tùy phái của trường đang cầm trong tay mặt một cái dùi … tay trái ông vịn hờ trên mép cái trống lớn mà nhà trường dùng để báo hiệu giờ học … (treo trên xà nhà thòng xuống) .. Bác nháy mắt với tôi như muốn nói “Bình tĩnh đi con … Dễ mà!!!!!” …. Nhìn thấy cái nháy mắt của ông … tôi cảm thấy yên bụng một chút …

Chờ cho ông hiệu trưởng và các thầy-cô đã xếp vị trí xong … tôi quay lại nhìn các bạn trong lớp … tất cả đang đứng ba hàng dọc sau lưng mình … trên bậc kỳ đài là trưởng ban trật tự và trưởng ban học tập đang nắm chặt trong tay hai đứa nó sợi dây cột lá đại kỳ …. cả hai đang nhìn lại tôi với nét mặt cũng căng thẳng …. chắc không kém gì tôi lúc đó … Tôi nhìn sang phía bên kia kỳ đài … ông hiệu trưởng gật nhẹ đầu … vẻ khuyến khích … Phía sau lớp chúng tôi vẫn còn tiếng ồn ào xa phía cuối sân trường … “mấy đứa lớp dưới vẫn đang còn cười giỡn!!!” …. Tôi nghĩ thầm …

Hít một hơi dài … tôi lên giọng hô lớn vào cái micro …. “Tất cả chú ý !!! … Thao diễn …. nghỉ!” …. Tiếng lào xào ở cuối sân lắng xuống …. Tôi hít một hơi nữa dài hơn …… “Nghiiiiiiiiiiêêêêêêm!!!!!!! ….. Lễ chào quốc kỳ bắt đầu!!!” …. bác tùy phái đánh ba tiếng trống thật đanh … “Tùng ! Tùng! Tùng” … Sân trường lúc này im hẳn …. tôi tiếp tục hô lớn … “Thượng kỳ!!!!” …. “Quốc ca !!!!” …. lần này chỉ một tiếng trống thật ngắn vang lên … “Tùng!” ….. Tôi bắt nhịp …. “Này công dân ới !!!!! … 2 … 3” …,

Hơn 30 cái miệng sau lưng tôi hòa giọng thật hùng dũng ….

“Này công dân ới …. quốc gia đến ngày giải phóng ….
Đồng lòng cùng đi … hy sinh tiếc gì thân sống ….
Vì tương lai quốc dân …. cùng xông pha khói tên ….
Làm sao cho nước Nam … từ nay luôn vững bền ….”
Hai bạn tôi trên kỳ đài bắt đầu từ từ …. một kéo … một thả dây …. lá cờ từ từ lên …
“Dù cho phơi thây trên gươm giáo …
Thù nước … Lấy máu đào đem báo …..
Nòi giống … lúc biến … phải cần … giải nguy …
Đoàn công dân ta … cố rèn .. tâm chí …. hùng tráng …
Quyết chiến đấu …. Làm cho khắp nơi vang tiếng người nước Nam ….
Cho đến muôn đời …”

Lá cờ đã lên đến nửa cột …. Giọng hát bên dưới hình như mạnh hơn …. khi vào điệp khúc của bài quốc ca …

“Công dân ơi !!!! Mau hiến thân dưới cờ !!!!
Công dân ơi!!!!! Mau làm cho cõi bờ …
Thoát cơn tàn phá …
Vẻ vang nòi giống …. xứng danh …
Ngàn năm giòng giống Lạc Hồng ….”

Tiếng hát vừa dứt thì lá cờ cũng lên đến ngọn cột …

“Lễ chào quốc kỳ chấm dứt !!!! Thao diễn … Nghỉ!!!! … Xin kính mời ông hiệu trưởng ban huấn thị …”

Ông hiệu trưởng ….. năm đó hình như đã ngoại ngũ tuần …. tóc đã bạc trắng … nhưng dáng đi vẫn còn lanh lẹ lắm … tiến lên trước micro và nêu lên những huấn thị cho một tuần lễ sinh hoạt của toàn trường … Ông nói không dài … nhưng có một đoạn mà tôi vẫn nhớ đến bây giờ … Đó là khi nói về lễ chào cờ, ban khen lớp chúng tôi xong, ông đã nói về …”những tiếng ồn ở cuối sân …” trong khi trên kỳ đài đang chuẩn bị làm lễ … “Cho dù hoàn cảnh đất nước ra sao …… bài quốc ca và lá quôc kỳ có thế nào đi nữa … các con hãy nhớ rằng còn được chào hai hình ảnh đó thì có nghĩa là chúng ta vẫn còn là người có tổ quốc … hãy trân trọng những lúc như vậy … đừng tỏ ra mình là những kẻ thất giáo, vô ơn đối với vuông đất dưới chân mình …”

Câu nói “… bài quốc ca và lá quốc kỳ có thế nào đi nữa …” … mãi đến cuối năm đó …. trong chương trình Quốc Sử lớp Nhất … tôi lờ mờ hiểu được … Và đến cuối bậc Trung học Đệ nhất cấp … trong môn Quốc Sử và Thế Giới Sử lớp Đệ Tứ (lớp 9 ngày nay) … tôi đã hiểu rõ hơn những lời của người hiệu trưởng năm xưa …

Thầy cũ nay đã về với hạc nội mây ngàn …. trò xưa giờ tóc đã lấm bụi phong trần … Nhưng những lời giáo huấn trong lễ chào cờ năm nào vẫn cứ vang vọng … Giáo dục tính cách công dân có lẽ không phải là những lời hoa mỹ … mà là những tiếng nói thật nhẹ nhàng … nhưng vẫn gợi được những ký vãng không phai …